Old school Swatch Watches

Thời sự 24h.wapgem.com

giaitri24h.wapgem.com

»º♥∴☆∴♥º«
giaitri24h.wapgem.com


Bạn đang ở :
United States



Trang 222 tới 248

NĂM Kỷ- MÃO (1939)

LỘ CHÚT CƠ HUYỀN

Trần-thế lợi danh giấc mộng tràng,

Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian.

Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo,

Tầm đấng hiền-từ cứu thế-gian.

Khắp trong bá-tánh kề cảnh khổ,

Đạo-đức hiền lành kiến Tiên-bang.


*

Thiên-địa u-minh dĩ đạo tràng,

Thập bát chư hầu lụy há khan.

Đạo-lý tầm sâu, sâu chẳng cạn,

Đời cùng ly-loạn khắp chư bang.


*

Thương hải tang điền ắt chẳng yên,

Thiên Địa diệt gian dĩ thiện riêng.

Cơ thâm họa diệc từ đây có,

Bộ máy thiên-cơ ắt đảo huyền.

Tuất-Hợi nhị niên giai tiền định,

Huờn lai Thượng-cổ mới bình-yên.


*

Điên nầy vốn thiệt ở núi Vàng,

Thương đời nói rõ việc lầm than.

Khuyên trong lê-thứ mau mau tỉnh,

Yên trí nghĩ suy biết đá vàng.

Trang 222

Ý gì Tiên-Trưởng muốn khuyên đời,

Mà đời lầm-lạc lắm đời ôi !

Đạo-đức nhuốc-nhơ mà sao đặng,

Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời.


*

Bi-động từ tâm gọi mấy lời,

Chúng-sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi.

Kim-Sơn xem thấy lòng tha-thiết,

Mà còn nhiều lắm, chúng-sanh ôi !


*

Nam-Việt cúi lòn dài dặm-dặc,

Nhưng ấy chẳng qua tại lẽ trời.

Đạo-hạnh huyền-cơ khuyên đó kiếm,

Chẳng vậy sau nầy khó thảnh-thơi.


*

Cổ-ngữ hằng ghi thậm khổ đa,

Tận diệt nhơn-gian trực tiên khoa.

Lão giả hậu qui nhơn ấu giả,

Ly-kỳ thiên định dĩ thiên-la.


*

Tây-Phương trở gót quá xa đàng,

Thương xót Nam-kỳ lại An-giang.

Đoái thấy xóm làng thêm bắt chán,

Yêu đời mê-muội luống bầm gan.


*

Thiên-Trước tòa sen có chỗ ngồi,

Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi.

Khắp trong Sáu-Tỉnh toàn giả-dối,

Xá phướn tăng-sư tạo việc tồi.


Trang 233

Thiên-cơ thế-giới đà biến chuyển,

Từ rày trần-hạ lợi danh trôi.

Tu hành giả dối khuyên khá đổi,

Cúng kiếng trai đàn cũng nên thôi.


Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão


CHO ĐỨC ÔNG MẤT GHET



Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,

Bửu sanh du-lịch Lục-Châu giang.

Kim-Sơn thương-mãi toàn lê-thứ,

Thức tỉnh bá-gia giấc mộng tràng.




( Đức Thầy đọc bài nầy cho Đức Ông nghe và bảo Đức Ông kiếm mấy ông thầy nho mượn bàn thử ! )


Hòa-Hảo, tháng 7 Kỷ-Mão

*

MẶC TÌNH AI



( Nhơn việc người ngoại Đạo chỉ-trích Đức Thầy )


Bá-gia mặn lạt mặc tình ai,

Đạo-lý tầm đâu chẳng thấy rày.

Chỉ thấy hình trơ thân xác trọi,

Ai người tâm đạo nghĩ càng hay,

Ai người thích đạo thấy chàng ray.

Thầm thầm tối tối gẫm ai hay,

Mặc sức dương-trần chữ đắng cay.




Trang 224


Có báu thì ta dành của báu,

Ai tầm cho giỏi mới được hay.

Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần,

Có một hội nầy rán lập thân.

Chớ để trễ chầy rèn chẳng kịp,

Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần.

Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão


*

BÁNH MÌ


Mì kia gốc phải nước mình không ?

Nghe thấy rao mì thốt động lòng.

Chiếc bánh não-nùng mùi khách lạ,

Bát cơm đau-đớn máu cha ông.

Văn-minh những vỏ trưng ba mặt,

Thấm-thía tim gan ứa mấy giòng.

Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược,

Say mì l¡m kẻ bán non sông.

Khải-hoàn dân-chúng mới nhàn an,

Dân mảng còn mê giấc mộng tràng.

Thảm-thê thế sự mùi cay đ¡ng,

Ta hỡi đau lòng khách ngoại bang.


H.H năm Kỷ-Mão (tại nhà ông Nguyễn-duy-Hinh)

*

Trang 225

Ông LƯƠNG-VĂN-TỐT hỏi :


( Ông Tốt ở làng Mỹ-Hội-Đông, tỉnh Long-Xuyên )




Mộ đạo ơn trên chưa hiểu danh,

Xin ông phân cạn chúng nghe rành.

Ba ngàn thế-giới ai là chủ ?

Mở lượng từ-bi dạy chúng-sanh.

*

ĐỨC THẦY đáp họa :



Vưng lịnh Phật Tôn chưa hiệu danh,

Ngặt vì pháp-luật khó phân rành.

Càn-khôn muốn biết ai là chủ,

Tu hành theo dõi đến mây xanh.

Vì sao thế-giới lại ba ngàn ?

Học đã rành chưa đến hỏi han ?

Đã lãm nho văn thì phải đối,

Đáp lời cho vẹn kiến Tiên-bang


*

Đời văn-vật say mê khổ thảm,

Người nào đà tường lãm nho văn ;

Xưa nay mèo-mã lung-lăng,

Làm cho quên mất Đạo hằng thánh-nhơn.

Nay gặp kẻ có cơn thức-tỉnh,

Phận làm người thủng-thỉnh sửa-sang.

Tay xuống bút nói lang chuyện thế,

Bày Đạo mầu cứu-tế nhơn sanh ;

Kìa kìa các bực công-khanh,

Miễu son tạc để đành rành chẳng sai.


Trang 226


Hỡi ai kẻ học hay lo liệu,

Rứt bụi trần bận-bịu làm chi.

Làm cho rồi phận tu-mi,

Sau nầy sẽ thấy ly-kỳ Năm-Non.

Chừng Bảy-Núi lầu son lộ vẻ,

Thì người già hóa trẻ dân ôi !

Tu-hành ¡t được thảnh-thơi,

Lại xem được Phật được Trời báu thay !

Thân hành Đạo đắng cay phải chịu,

Phận làm người phải liệu cho xong.

Cần chi gạn hỏi viển-vông,

Làm người chưa vẹn khó hòng thảnh-thơi.

Nói nhiều lắm xe lơi tình nghĩa,

Chữ hiền lành trau-trỉa cho xong.

Thấy đời trần hạ long-đong,

Chẳng lo khó thấy Mây-Rồng hội kia.

Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão

*

CHO CÔ TƯ CỨNG Ở HÒA-HẢO (CHÂU-ĐỐC) MẤT ĐỒ





Kích động thiện tâm lụy xót-xa,

Thoàn loan trở gót dụng tiên-khoa

Khuyên giải phàm nhơn tan sầu muộn,

Vật-dụng gia-đình khó kiếm ra.


*

Thương đó lòng đây rất thiết-tha,

Thiên định số căn mới xảy ra.

Đoái thấy tà-gian Trung-Trực ghét,

Nhưng vì vận hạn chẳng phui ra.



Trang 227


Hòa-Hảo, ngày 17 tháng 7 năm Kỷ-Mão





( Bài nầy Đức Thầy bảo Cậu Út Huỳnh Thạnh-Mậu, bào-đệ của Ngài,đem trao cho cô tư Cứng nói rằng là của ông thầy bói mượn đưa cho cô)L.S.G.-Trong cuốn Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm có đoạn nói về chuyện cô tư Cứng mất đồ như vầy :


*

Con thuyền đương lướt gió sương,

Bỗng nghe tiếng khóc tư-lương ai-hoài.

Có người ở xóm bằng nay,

Bị mất trộm rày đồ-đạc sạch trơn.

Du-thần bày tỏ nguồn cơn,

Rằng người nghèo khó đương hờn phận duyên.

Điên nghe vội-vã quày thuyền,

Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.

Coi rồi bày tỏ thiệt hơn,

Khuyên cô đừng giận đừng hờn làm chi.


*

CHO ĐỨC ÔNG VÀ ĐỨC BÀ


Chừng nào vết nọ liền da, (1)

Chuột kia mãn hạn khỉ vào vườn hoa.

Ấy là thời đại của ta,

Thầy ra cứu thế mới là hiển-vinh.


Hòa Hảo tháng 8 năm Kỷ-Mão

*

( 1 ) Sau khi đi Tà-Lơn với Đức Thầy về,

Đức Ông đau bàn chơn trái ngót hai tháng.


Trang 228


<< HỐ HÒ KHOAN >> (1)


Huỳnh long lộ vĩ ; Bạch-sĩ tiên sanh,

Nam-quốc công khanh ; Ra đời cứu tế ;

Hò xang xự xế ; Mắc kế Trương-Lương,

Tự giác thôn-hương ; Qua dương cơ-khí.

Lập chí hiền nhơn ; Nên mới có cơn,

Thất-Sơn tiếng nổ ; Qui cổ diệt kim.

Cửu cửu y nhiên ; Tình riêng tham báu,

Đổ máu tuôn rơi ; Khùng mới nói chơi,


Chư bang hàng phục.


Anh hố hò khoan ; Tình lang xự xế,

Bỏ phế hương thôn ; Ác đức vô môn.

Rồng-Mây hội yến ; Ra đời bất chiến,

Nổi tiếng từ-bi ; Lời lẽ rán ghi.

Thành công êm thấm ; Có lắm người yêu.


Hòa-Hảo, lối tháng 8 năm Kỷ-Mão

*

( 1 ) Phần nhiều bài của Đức Thầy không có đề tựa.Muốn cho tiện việc sắp-đặt trong quyển sách nầy, chúng tôi tùy theo ý nghĩa của mỗi bài mà đề một cái tựa. Những bài nào có tựa mà chúng tôi chắc rằng do Đức Thầy đặt thì chúng tôi để vào cái móc ( entrecrochets).

*

HƯƠNG- Chủ ĐạT xướng :


(Ông Đạt ở làng Nhơn-Mỹ, tỉnh Long-Xuyên)


Đạo mầu phận tớ hiểu chưa rành,

Cầu nguyện Di-Đà độ chúng-sanh.


Trang 229



Bể giác, bờ mê mong thoát khỏi,

Nhờ thuyền bát-nhã giúp công thành.


ĐỨC THẦY họa :



Thâm diệu rồi đây cũng hiểu rành,

Một lòng nguyện độ tận nhơn-sanh.

Giác-mê hai chữ rồi ta chỉ,

Chí dốc ngày kia sẽ đạt thành.

Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão


*

Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng :


Ông Nguyễn-Thanh-Tân, tức Hương-lễ Ướng là người ở làng Mỹ-Hội-Đông,

thuộc tỉnh Long-Xuyên. Theo lời một người con trai của ông, thì mấy

bài thi dưới đây ông đã làm khi diện kiến Đức Thầy lần thứ nhứt :


Phận hèn cám tưởng nghĩa non sông,

Hản mặt rồi đây khách cõi Bồng.

Cẩm-tú l¡ng tai người Nhược-thủy,

Từ-bi cảm-ứng thứ trung thông.

ĐỨC THẦY đáp họa :

Cảm nghĩa sĩ hiền tưởng núi sông,

Thương người đưa đến chốn tiên Bồng.

Cẩm-tú lòng yêu vì quốc thủy,

Đợi thời đưa đến ứng trung thông.

Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão

*

Trang 230


THANH-TÂN hựu tác


Mảng mê danh-lợi đạo lu-bù,

Nhờ có ơn Thầy dẫn-d¡t tu.

Mê tỉnh, tỉnh mê, mê phải tỉnh,

Bồ-đề say gục phá tâm ngu.


ĐỨC THẦY họa:



Dạy chúng chưa xong dạ rối

Mấy chục năm trường lạc chữ tu.

Sanh-chúng say mê, mê khó tỉnh,

Bồ-đề chẳng mến, ấy người ngu.


Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão

*

THANH-TÂN vấn gia-đình


Gia-đình kỷ cá hội long đàn,

Ngưỡng vọng cao ân tố nghiệp xang.

Phi vụ tiết phong tầm chánh lý,

Nho tông vị bác hiệp tôn nhan.



ĐỨC THẦY đáp :



Mộng sầu tan giác hiệp liên đàn,

Hai chữ từ-bi thẩm nghiệp an.

Bài trí năng soi chơn giáo-lý,

Phật tiền hưởng-ứng kiến long nhan.

Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão


*

Trang 231

HIẾU NGHĨA VI TIÊN :



Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,

Hành thiện tri kinh thị sĩ hiền.

Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng-nghiệp,

Phật tiền hữu nhựt vĩnh an-nhiên.


Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão


( Ông Thanh-Tân có họa lại bài thơ trên đây, nhưng xin miễn chép )


*

CÚC CUNG BÁI


( cho ông Hương-lễ Ướng )


Cúc cung, hưng bái, cúc cung hoài,

Lui tới nhún trề, xướng lại dai.

Ton-tán, ton-tờn thêm cóc-xẻng,

Vỗ bồng vác hất, thấy càng gay.


*

Khuyên thôi mà tiếc vẫn cung hoài,

Mến tríu hơ-hà thiệt rất dai.

S¡p đến khó mong mà cóc xẻng,

Thất mùa chẳng rước thật là gay.


Vóc-vạc trung trung béo mập người,

Tuổi vừa sồn-sộn quá năm mươi.

Bụng to tai điếc ưa nghề lễ,

Thi phú thâm trầm chớ dể ngươi.



*

Trang 232


Khá khen cho đó ý như lời,

Chơn-chất hiền hòa ít nói chơi.

Nhu sĩ lương-từ thêm cảm mến,

Nên làm thi phú ghẹo người ơi !


Hòa Hảo năm Kỷ-Mão


(Ông Hương-lễ Ướng tức Nguyễn-thanh-Tân có đáp

họa 4 bài thi trên đây, nhưng xin miễn đăng).


*

BÀI CẦU CƠ



Nguyễn đắc thanh-danh tam hữu phân,

Đa công hoài luyện thập niên phần.

Chúng kỳ vật xảo thiên truyền bá,

Phước lộ hoành thân ngũ sắc vân.


( Bài nầy do một người ở Phú-Lâm, cầu cơ tại trên núi, đem đến Đức Thầy).


ĐỨC THẦY họa:



Nải chí thi âm tất hữu phân,

Thiên-nhiên liên huệ tác nhi phần.

Vạn ninh hà-hải vi vương bá,

Viễn-vọng thanh-tân tảo phi vân.

Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão


*

Trang 233


NHỨC ĐẦU



Nhức đầu rang óc bởi vì đâu,

Nhức mỏi lòng trông dạ hết sầu.

Nhứt dạ chờ ngày Trời trả phúc,

Nhức gân, nhức cốt cả trời Âu.

Nhức đầu bị tiếng nổ đâu đâu,

Nhứt quyết làm cho chúng thoát sầu.

Nhứt thống dân sanh gầy hạnh-phúc,

Nhứt tràng lê-thứ khỏi lo âu.



*

Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão


KHUYÊN BỎ DỊ-ĐOAN



Thiện-tín tới đây chớ ngã lòng,

Xác trần mê mệt nỗi long-đong.

Cậu, cô, chú, bác đừng coi bói,

Theo lối dị-đoan mất bạc đồng.

*

Bạc đồng chẳng dụng, dụng chơn không,

Quyết chí nâng-niu giống Lạc-Hồng.

Tìm-tõi Đạo mầu trong Phật-pháp,

Cho đời hiểu rõ lý chơn không.



*


Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão


( Đức Thầy viết bài nầy vì lúc đó có nhiều người đến nhờ

Ngài đoán giùm vận mạng hoặc việc gia-đình).

Trang 234

NGHĨ VIệC HUYỀN CA



Ngồi buồn nghĩ cạn việc huyền-ca,

Muốn rứt cho xong bể ái-hà.

Phá bức tường mây nhìn vạn vật,

Ngặt vì trướng lụa lấp đèn pha.

Lôi-thôi quá chậm trong đường thẳng,

Trễ-nải khó qua nẻo cọp-xà.

Một bước leo bờ mà khỏi khổ,

Nam nhân chi chí hỡi đâu là.

Đâu là ái-quốc với yêu đời,

Phổ cứu cho rồi mới thảnh-thơi.

Trời Nam sốt ruột chờ con đỏ,

Đất Bắc lòng lang nỗi thậm lời.

Cố tưởng người trần, trần chẳng đoái,

Tình sâu dân sự, sự xa vời.

Rồng tiên mở mắt nhìn thi phú,

Hiệp mặt tớ thầy sẽ nghỉ-ngơi.

Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời,

Một bầu nhiệt huyết chẳng xa lơi.

Mến yêu quốc-thủy tình đồng chủng,

Phải tính sao xong nỗi cuộc đời.


Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão

*

Trang 235


THIÊN-LÝ ca


( Mấy bài dưới đây do ông Cả Châu ở Tân-Long (Châu-đốc)

đem trình với Đức Thầy nói rằng của Ông Đò cho ông ) :


PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo,

NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò.

CHÂU lạc đường dê nương bước ngựa,

Núi truông qua đặng rán lần dò.

Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu-chít,

Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó-o.

Tường-tận đã nghe xê cống líu,

Hương thôn bỏ xế xự xang hò.


Đọc ngược lại bốn câu chót (tứ tuyệt nghịch độc)


Hò xang xự xế bỏ thôn hương,

Líu cống xê nghe đã tận-tường.

O-ó tiếng gà coi nguyệt cảnh,

Chít-chiu giọng khỉ ngó hoa vườn.


*

Quỉ ma hay phá rối người tu,

Đạo-đức chư nhu rán chí hành.

Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh,

Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh.


*

Đêm thanh vắng tiếng đờn khoan-nhặt,

Nghe cho tường giọng B¡c hoà Nam.

Thích-Ca còn phế tước-hàm,

Đài cao cửa rộng mà ham tu-hành.


trang 236


Hiền-đệ Châu muốn nghe lời ngọc,

Lão tỏ bày hình vóc nhiệm-sâu.

*

(Câu nầy của Đức Thầy thêm. Đoạn sau đây có khúc của ông Đò,

có khúc của Đức Thầy viết xen kẽ ).


Thiên ý không riêng mối Đạo mầu,

Rằng truyền yếu-lý nhiệm cao sâu.

Chuyển miền Nam-Địa càng thâm-diệu,

Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu.


Nguồn bạch thủy trong veo thấy dạng,

Lẽ nhiệm-mầu chưa hản trò ôi !

Đêm ngày buồn-bã vô hồi,

Kìa trên Tiên-cảnh vị-ngôi sẵn dành.

Đạo rải khắp năm canh tỏa bút,

Dạy tận-tường chẳng chút nào sai,

Cổ nhơn tích để phân bày,

Đường chơn nẻo chánh âu ai rán tầm.

Thuyền bát-nhã chí tâm trực thẳng,

Thả ra khơi cứu dẫn khách trần.

Phù-sanh lắm cuộc lao thân,

Ngày đêm ta-thán muôn phần đớn-đau.

Trông đợi người tài cao đức trọng,

Hầu rõ thông thiên-võng lẽ nao.

Chí tâm tường-lãm thấp cao,

Dạy cho rõ biết Thiên-Tào nơi đâu.

Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế,

Bởi ít ai cải chế đường tà.

Sợ e nhiễm trược đọa sa,

Sợ cho lắm kẻ chan-hoà lụy tuôn.



Trang 237

Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,

Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn.

Mảng lo tìm kiếm tước quờn,

Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành.

Trong buổi khổ mau mau tránh khổ,

Rán tầm vào đến chỗ an cư.

Học câu hỉ-xả đại từ,

Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần.

Câu bát-chánh rán mài chạm dạ,

Tứ mục-điều người khá hành y.

Muôn thu thiên định nhứt kỳ,

Hạ-nguơn s¡c-lịnh khai kỳ Long-Hoa.

Rán vẹt phá sương mù trước mắt,

Chớ để cho quỉ dắt linh hồn.

Lão đây vưng lịnh Phật-Tôn,

Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành.

Khá chí tâm học-hành kinh sám,

Thoát nơi miền hắc-ám phong-ba.

Trở chơn cho kịp Long-Hoa,

Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.

Đền nợ thế nghĩa-ơn trọn vẹn,

Lấy tinh-thần hiệp vén ngút-mây.

Chớ nên bắt-bẻ Phật-Thầy,

Ngày sau phải chịu đọa-đày chớ than.

Cuối năm Thìn sẽ lo vận chuyển,

Xứ Hà-tiên linh-hiển cơ-quan.

Nhơn-sanh sẽ hiệp một đàng,

Hết Thìn rồi lập Nhơn-Hoàng hội ra.


Trang 238


Khuyên sanh-chúng gần xa phân cạn,

Dựng Nhơn-Hoàng cho rạng Á-Đông.

Chúng-sanh phải tưởng giống-dòng,

Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam.

Phật chỉ dạy qui tam lập hội,

Dựng cho rồi một cội thành ba.

Chớ mong yến thử ẩm hà,

Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con ?

Ta nhắc lại héo von cho trẻ,

Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia.

Cả kêu lớn nhỏ quày vìa,

Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân.

Long-Hoa hội ân-cần lo lập,

Lập cho rồi tam-thập-lục nhơn.

Lôi-Âm giục khởi tiếng đờn,

Thất-Sơn dấy loạn là cơn hiểm-nghèo.

Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc,

Đứng sau lưng hình-vóc dảy chưn.

Nước kia lửa nọ tưng-bừng,

Thảm cho thế-sự lẫy-lừng nạn-tai.

Thời cũng tại không ai tu niệm,

Cứ lẳng-lơ ngạo biếm khoe-khoang.

Đến nay là buổi tai-nàn,

Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân.

Đến Thân-Dậu Thánh-Thần náo-động,

Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang.

Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn,

Nạn-tai dồn-dập xóm làng còn chi.

Khuyên sanh-chúng rán ghi mối Đạo,

Lòng hằng lo ngay thảo nghe con.

Trang 239

Trở Lên Tương dưa giữ phận cho tròn,

Cuối niên Thân-Dậu mất còn sẽ phân.

Trong một giáp ân-cần suy tính,

Muốn làm hiền rán nhịn đừng than.

Đến nay gần buổi khoa tràng,

Minh-Quân xuất thế khắp tràng thảnh-thơi.

Đến Thân-Dậu cơ trời thấy lộ,

Hết đao-binh qui cổ diệt kim.

Gia vô bế hộ im-lìm,

Lập thành mối Đạo rõ điềm xưa kia.

Thì dân-chúng danh bia hậu thế,

Phật, Thánh, Tiên kềm chế lập thành.

Diệt tà lập chánh đành-rành,

Ba màu nắm chặt Nam-thành xử phân.

Trong tam giáo ân-cần mở Đạo,

Trường ngoại bang phục đáo như xưa.

Phật Tiên vận-chuyển lọc-lừa,

Chúng-sanh rán nhớ muối dưa hội nầy.

Trên cùng dưới sum vầy một buổi,

Dựng mười hai may rủi mới hay.

Làm cho rõ mặt râu mày,

Thượng-nguơn hồi-phục là ngày an-cư.

Cuối Thân Dậu y như Thượng-cổ,

Thời nhơn-sanh hết khổ đến may.

Đế-Vương xuất thế là ngày,

Dậu, Thân bình-trị trong ngoài âu ca.

Phân chỉ rành gần xa để dạ,

Chớ đảo-điên phải đọa phải sa.

Nghĩ suy cho thấu mới là,

Một bầy Hồng-Lạc nay đà thảnh-thơi.


Trang 240


Khuyên sanh-chúng nhớ lời ta tỏ,

Trước cùng sau chỉ rõ mối đàng.

Nhơn-sanh giữ phận chớ than,

Minh-Vương xuất thế mới an dân lành.


*

Gội ơn Trời độ khỏi sai lầm,

Xin giúp chí bền, chí dục tâm.

Hộ mạng thần Quan-Âm trợ lực,

Nguyện thân ý nhiệm xứng công thần.


*

Từ-bi Trời Phật độ quần sanh,

Cứu khỏi tai ương vạn sự lành.

Đệ-tử gội nhuần ân đức cả,

Chung thân quyết chí dốc làm lành.


*

Đoạn dưới đây là hoàn toàn của Đức Thầy ( chép theo bổn chánh).


Buồn vơi mượn bút tay đề,

Đã rời trần-thế dựa kề Tiên-bang.

Tay chèo miệng nói lang-mang,

Chúng-sanh cách trở nghèo-nàn hỡi ai.

Lục-châu ta dạo bằng nay,

Thấy trong lê-thứ quá dài gian-nan.

Động tình tá quốc an bang,

Nước nhà vững đặt Nam-đàng hiển-vinh.

Bây giờ ta mượn kệ kinh,

Khuyên ai mau kíp sửa mình cho an.

Bữa xưa giảng-kệ một nang,

Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa.


Trang 241


Ngày nay ta cũng nôm-na,

Gẫm trong lê-thứ hằng-hà lụy rơi.

Chừng nào mới đặng thảnh-thơi,

Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân.

Chim Ô đà dựa cầu Ngân,

Người xưa trở gót cho gần người nay.

Người nay rồi vẹn thảo ngay,

Thì là thấy tạn mặt mày người xưa.

Nguyện cầu gắng chí sớm trưa,

Cầu cho bá-tánh sớm ưa tu hành.

Đầu đuôi ta tỏ ngọn ngành,

Mau mau trau-trỉa chữ lành cho xong.

Đến chừng lập hội mới mong,

Trở về chúa cũ mới hòng xuê-xang.

Người hiền như thể cỏ lan.

Người hung chết rất chật đàng thảm thay.

Cả kêu kìa hỡi là ai,

Quan trường rời dứt mặt mày chùi lau.

Lui chơn ra khỏi cho mau,

Tìm trong lánh đục tẩu-đào mới ngoan.

Theo ta đến chốn Tiên-bang,

Đặng coi các nước hội hàng Năm-Non.

Đạo Phật vốn ngàn xưa rạng tỏ,

Nay lu-lờ bị mõ cùng chuông.

Thấy chúng-sanh đắp Phật bán buôn,

Mà tội lỗi ngàn muôn lao-lý.

Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí,

Rán nghĩ suy bền chí mới mầu.

Dẹp lợi-danh dẹp hết mộng sầu,

Đặng trở lại với cha cùng chúa.


Trang 242

Nếu chẳng lo cũng như lá úa,

Lá úa vàng nó rụng người ôi !

Ngàn năm mới có một đời,

Tới chừng lập hội Phật-Trời xử phân.

Ai muốn gần bệ ngọc các lân,

Thì phải rán lập thân nuôi chí.

Ta cho đó ít câu hữu lý.

Diệt tâm trần lập chí hiền-nhơn.

Đục trong đà tỏ nguồn cơn,

Lời ta khuyên đó như đờn Bá-Nha.

Mặc ai biếm-nhẻ gần xa,

Lòng ta ta biết ai mà mặc ai.

Đây khuyên đó đắng cay rán chịu,

Mặc người trên bận-bịu chẳng phê.

Muốn cho thân vượt khỏi lề,

Cắm sào trì chí một bề lo tu.

Kim ngọc nan tri tường đông hải,

Phật tà phàm tục tất nan tri.

Ẩn xác phàm-phu gìn Thích-Đạo,

Mặc tình thế-sự chúng khinh-khi.

Mấy kẻ tu mi tròn nhơn đạo,

Hiền nhơn thức tỉnh kiến huyền-vi.

Ngay thẳng hiếu-trung trang hiền-thảo,

Kim-thời bá-tánh gọi ngu-si.

Nợ thế đền xong mong giai lão,

Hiền thần hiếu-nghĩa đáng nên ghi.

Lâm sầu mộng ở trong trần-thế,

Việc tu-hành như ế chợ đông.

Mảng lo danh lợi não-nồng,

Chữ tu để dạ chớ hòng lợt-phai.


Trang 243


Mặc tình ai gièm-pha tai tiếng,

Sửa tâm lành như miếng hoa thơm.

Đến chừng hoa nở nhụy đơm,

Thì là trần-thế mới hờm bẻ hoa.

Câu đạo-lý thiệt tường thiệt tận,

Khuyên dương-trần bớt giận đừng gây.

Kìa kìa súng nổ trời Tây,

Đến năm Thân-Dậu tai đầy sấm vang.

Hung-đồ với lũ dọc-ngang,

Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu.

Thấy đạo-lý còn lu chưa tỏ,

Dân ganh hiền ghét ngõ làm chi ?

Buồn đời xuống bút làm thi,

Thương dân chịu chữ cố lỳ dạy dân.

Nào nào dân có biết ân,

Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi.

Lời châu ngọc khuyên ai để dạ,

Nay gặp người quái lạ tỏ phân.

Hãy mau khuya sớm chuyên cần,

Đặng xem chư-quốc non Tần giành chia.

Nay nhằm lúc đêm khuya lặng-lẽ,

Nhắn ít lời cho kẻ đàng xa.

Phật-nhi tâm tánh thật-thà,

Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi ?

Dương-trần thường bạc như vôi,

Gặp cơn bát-loạn mới hồi tâm hung.

Lúc áo-não cội thung lo-liệu,

Gắng bền lòng bận-bịu vì ai.

Thất-sơn lộ vẻ đài lầu,

Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta.



Trang 244


Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí,

Lẽ nhiệm-mầu huyền-bí nơi đây.

Bây giờ nương bóng cờ tây,

Mượn phần xác thịt tỏ bày thiệt hơn.

Thương sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc,

Ta quyết gìn chủng-tộc giang-sơn.

Ta khùng mà chẳng có cơn,

Cũng không có tánh giận hờn bá gia.

Cười rồi khóc thiết-tha lịu-địu,

Vợ xa chồng bận-bịu thê lương.

Chẳng cần trà, quả, nồng hương,

Miễn cho bá-tánh biết đường chơn tu.

Nghe kệ sám như ru giấc mộng,

Lo chê cười hầu họng reo vang.

Ỷ mình nhiều của giàu sang,

Phụ khinh Tông-Tổ chẳng màng người xưa.

Mặc ý ai ghét ưa ưa ghét,

Lấy tâm thần xem xét thể nao ?

Sấm vang thì lộ bảng vàng,

Chư nhu thế-giới khắp tràng tới thi.

Chữ thi gần chữ sầu-bi,

Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi.

Chừng đó mới trời ơi đất hỡi,

Mang khổ hình vì bởi chẳng tu.

Ham vui quyền quí dại ngu,

Chữ sang danh vọng như mù đi đêm.

Ta nào có nói thêm cho chúng,

Quá yêu đời viết túng ít câu.

Ít câu mà ý nhiệm sâu,

Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn-ngoan


Trang 245

Đây sắp đến lầm than khắp chốn,

Việc tu hành đâu tốn tiền chi.

Nầy nầy lời lẽ rán ghi,

Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây.

Ta mắc lánh tà-tây đa sự,

Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni.

Ai là đáng bực tu-mi,

Thương đời ta mới làm thi khuyên đời.

Còn ẩn-nhẫn đợi thời đưa đến,

Nên phải làm kẻ mến người khinh.

Người hiền tâm trí thông-minh,

Người hung cứ mãi chống kình với ta.

Theo học cổ nôm-na ít tiếng,

Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm.

Chữ nhu ta học âm-thầm,

Ai là người trí rán tầm cho ra.

Để đến lúc phong-ba biến-chuyển,

Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông.

Mới là sợ chết ước-mong,

Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian.

Tiếng đờn hò líu cống-xang,

Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh.

Chốn Phật-cảnh vắng tanh kẻ tới,

Ta ra đời nên mới đổi thay.

Bởi vì lời lẽ thẳng ngay,

Cho nên chúng nó ghét bài phú thi.

Thấy tăng-chúng sầu bi dạ mỗ,

Kệ khuyên trần nước đổ lá môn.

Khắp cùng làng xóm hương-thôn,

Vì khôn quá thế nên tồn lại ngu.


Trang 246


Dạy đạo-đức người tu rạng lý,

Mong cho người hữu chí làm theo.

Không làm thì ắt mang eo,

Làm xong vượt khỏi qua đèo chông-gai.


Hòa Hảo tháng 7 năm Kỷ-Mão


*

LUẬN VIệC TU HÀNH



Tu hành dương-thế cậy đồng tiền,

Phật-Giáo vì tiền phải ngửa-nghiêng.

Bát-nhã chẳng đưa người tội ác,

Thuyền-từ nào rước lại Tây-Thiên.

Trần-gian đầy-dẫy người làm dối,

Đạo cả nào trông đến cảnh thiền.

Đoái thấy người đời lòng bắt chán,

Dương-trần lầm lạc đáng ưu-phiền


*

Muốn đặng về Thần với Thánh-Tiên,

Kỹ xem cõi thế thấy kia liền.

Cư trần bất nhiễm là người Thánh,

Lẫn tục đừng mê chứng bực hiền.

Phú quí tạo đời thêm mệt xác,

Tham danh phế Đạo chí đâu yên.

Sao bằng cửa Phật vui thanh-tịnh,

Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên.


*

Tiếc vì không đức, tiếc chi tiền,

Phật Thánh xưa kia sách vẫn biên.


Trang 247


Bác-ái xả thân tầm Đạo chánh,

Độ người lao-khổ dạ không phiền.

Mình vàng Thái-Tử ngôi còn bỏ,

Vóc ngọc Đông-cung tước phế liền.

Xem đó hỡi người mau lập chí,

Tu-hành khá nhớ giữ cho nguyên.


*

Muốn đặng thành Thần với Phật Tiên,

Rán tu-ân đức chớ tu tiền.

Lợi danh chớp-nháng như luồng gió,

Thấy đó rồi đâu bỗng mất liền.

Sớm thức tỉnh tâm tầm Đạo chánh,

Sau nầy về Phật với ngôi Tiên.

Lập thân giúp thế nên công-quả,

Muôn kiếp danh hiền sách vẫn biên.

Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão

*

TAM HÙNG TRỔ MẶT



Tam hùng trổ mặt ngỏ chào đời,

Từ mẫu bé nhi cũng thảnh-thơi.

Nam-Việt xuất thần ơn trên trước,

Đó là việc nước với việc trời.



Hòa-Hảo tháng 7 năm Kỷ-Mão



( Bài nầy viết trong khi người ta đồn bà Sáu ở núi Tượng sanh 3 người con : một mặt xanh, một mặt đỏ, một mặt trắng ).

*

Trang 248

LụY TAM CHÂU


Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa,

Thập bát chư bang động can qua.

Dương-gian mãnh thú trừ tàn-ác,

Lê-thứ hậu lai khổ thiết-tha.

*

Tần bang hậu hận tiên diêu-động,

Nam-quốc lương dân kiến linh-xa.

Phồn hoa đô hội lưu giang huyết,

Dư đảng dọc ngang cấp ma-ha.


Hòa-Hảo tháng 8 năm Kỷ-Mão



[trang chủ|Phật giáo|tin mới|Chat|plog|3G Media|Wapmaster]
Copyright © 2008 by giaitri24h.wapgem.com All rights reverved to Phu Thanh , Tam Nong Dong Thap . Pro